Theo thông tư 40/2013/TT-BYT thì thuốc Y học cổ truyền có 2 nguồn gốc : Bắc và Nam. Thông thường thuốc Nam được hiểu là vị thuốc được trồng trong nước và Thuốc Bắc là những thuốc có nguồn gốc từ phía Bắc như Trung Quốc, tuy nhiên có những vị thuốc được trồng cả ở Việt Nam và Trung Quốc, hoặc những vị thuốc di thực từ Trung Quốc vào Việt Nam, hoặc có những vị thuốc trồng ở Việt Nam xuất sang Trung Quốc sau đó lại nhập vào Việt Nam…
Lịch sử nghiên cứu thuốc Bắc lâu đời nhất là tại Trung Quốc với tác phẩm hơn 2000 năm tuổi “Thần Nông Bản Thảo” và theo dòng lịch sử đã có nhiều tác phẩm “Bản thảo” ra đời như “Bản thảo Cương mục” (Compendium of Materia Medica) của Lý Thời Trân, “Bản Thảo Cương Mục Thập di” (Supplement to the Compendium of Materia Medica) của Triệu Học Mẫn...đều là các công trình nghiên cứu dược liệu có quy mô và bổ sung cho nhau.
Thuốc Nam của chúng ta đã có từ rất lâu đời, gắn với tác phẩm “Nam dược thần hiệu” của danh y Tuệ Tĩnh. Tác phẩm của Tuệ Tĩnh Thiền Sư - ông tổ ngành dược Việt Nam, luôn thể hiện rõ quan điểm "Nam dược trị Nam nhân". Từ bao đời nay, giới khoa học và nhân dân Việt Nam đều công nhận Ông có công lao to lớn trong việc xây dựng một quan điểm y học độc lập, tự chủ, phù hợp với thực tế nước ta.
Hiện nay tuy các sách dược liệu ngoại văn khá phong phú, nhưng Việt Nam cũng có những tác phẩm tâm huyết có giá trị cao về thuốc Nam như Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (Đỗ Tất Lợi), Cây thuốc Việt nam và những bài thuốc thường dùng (Nguyễn Viết Thân), Từ điển cây thuốc Việt Nam (Võ Văn Chi), Dược lý trị liệu của thuốc Nam (Bùi Chí Hiếu) …. và một trong những công trình lớn nhất gần đây là Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam (Viện Dược liệu) tổng hợp 920 cây thuốc và 80 động vật thường dùng.

Theo quan điểm Đông dược, một dược liệu có mối liên quan giữa tính năng ( khí vị, quy kinh, khuynh hướng thăng giáng phù trầm) và tác dụng điều trị cơ bản của nó.
- Tứ khí (four qi) và ngũ vị (five flavours):
+ Tứ khí: bao gồm hàn, nhiệt, ôn, lương chỉ mức độ lạnh và nóng khác nhau của vị thuốc. Các vị thuốc hàn (thạch cao, hoàng cầm, đại hoàng…) thường chữa bệnh thuộc về nhiệt, và ngược lại các vị thuốc có tính nhiệt (Quế nhục, phụ tử, kinh giới…) có thể chữa các bệnh thuộc hàn. Ở mức độ hàn lương và ôn nhiệt còn có tính bình, gồm cây thuốc có các tác dụng như hạ thấp, lợi khí, lợi tiểu, long đờm…chẳng hạn như Kim tiền thảo có tính bình, có tác dụng lợi tiểu, có thể tống sỏi ra khỏi niệu quản.
Về thành phần hóa học, các vị thuốc tính lạnh và mát ( hàn lương ) thường chứa glycosid, alkaloid, chất đắng; trong đó các vị thuốc tính nóng và ấm (nhiệt ôn) thường chứa tinh dầu, đường…Nhiều thuốc OPC đã vận dụng lý luận của tứ khí đem lại hiệu quả điều trị cao: viên thanh nhiệt giải độc Cabovis (nhiều vị thuốc tính hàn), viên xoang mũi Rhinassin (nhiều vị thuốc tính ôn), Bát vị Bổ thận dương (quế, phụ tử có tính nhiệt).
+ Ngũ vị: mỗi dược liệu được đặc trưng bởi một hay nhiều vị do cảm giác của lưỡi đem lại, có 5 vị chính: chua, cay, đắng, mặn, ngọt. Ngoài ra còn có 2 vị phụ là vị nhạt và chát.

+ Quy kinh (meridian entry): là sự quy nạp hoạt chất (khí vị tinh hoa) của vị thuốc đó vào tạng (viscus), phủ (bowel), kinh lạc (Meridian and collateral) nhất định. Cơ sở của sự quy kinh dựa trên lý luận Ngũ hành (Five Phase Theory), tạng tượng (Visceral manifestation theory), kinh lạc (Meridian and collateral Theory); dựa vào đặc tính vốn có của thuốc và dựa vào phân tích hiệu quả của thuốc. Trong đó theo lý luận ngũ hành, thuốc có màu vàng, vị ngọt như Mật ong, Cam thảo, Hoàng kỳ… quy vào hành Thổ nên khi bào chế dược liệu có thể làm thay đổi tính vị quy kinh của thuốc, ví dụ đơn giản : thuốc có màu đen, vị mặn thường quy vào hành Thủy ( thận, bàng quang) nên Đỗ trọng, Hương phụ, Trạch tả thường tẩm thêm muối, Hà thủ ô đỏ được tẩm với nước đậu đen để tăng khả năng nhập kinh thận. Đó cũng là lý do dùng lâu dài sản phẩm Extracap chứa hàm lượng cao Hà thủ ô đỏ sẽ mạnh tạng thận, giảm được rụng tóc, tóc bạc sớm và chứng suy nhược cơ thể.
+ Khuynh hướng thăng giáng phù trầm của vị thuốc (upbearing, downbearing, floating and sinking): là 4 khuynh hướng tác dụng của thuốc: hướng lên thượng tiêu (thăng), xuống hạ tiêu (giáng), hướng ra ngoài (phù) hay hướng vào trong (trầm). Các vị thuốc chủ giáng thường có tính chất hạ khí, giáng khí, bình suyễn có thể điều trị các bệnh có xu hướng lên thượng tiêu (hen suyễn, khó thở, ho đờm…), nên các vị Tỳ bà diệp, Cát cánh, Tiền hồ, Tang bạch bì trong bài thuốc ho người lớn hay ho trẻ em OPC với tính chủ giáng mạnh, chữa các chứng ho gió, ho cảm, ho có đàm…
- Giải thích tính năng của thuốc Đông dược theo Dịch học (I Ching):
Có lẽ bạn sẽ thắc mắc tại sao người xưa lại phát hiện ra tính năng của các thảo dược? Chẳng hạn tại sao quan sát thấy chiết xuất của 1 lạng nhân sâm là đủ để giết chết một con voi, nhưng người ta vẫn tin Nhân sâm là vị thuốc cực quý?.

Dịch học trong Đông y (hay Y dịch) của người xưa đã lý giải được rất nhiều bí ẩn của cơ thể người, sự hình thành bào thai, nguồn gốc dược tính của thực vật, vùng thổ nhưỡng nuôi trồng cây thuốc…mà sau này khoa học hiện đại mới khám phá ra được. Có thể nói Dịch học giống như một món ăn tinh thần “lạ miệng” tăng thêm cái cảm giác vừa “khó nhai” vừa thích thú khi chúng ta đào sâu tìm tòi môn Đông dược đầy mầu nhiệm này.

Các phương thuốc trong Y học cổ truyền thường có nhiều vị thuốc phối hợp như Thập toàn Đại bổ (10 vị), Minh mạng hoàn (18 vị)…nhưng cũng có nhiều phương thuốc chỉ dùng độc vị cũng mang lại hiệu quả điều trị cao như Kim tiền thảo, Linh chi, Tam thất, Nhân sâm, Bạch quả, Diệp hạ châu, Hà thủ ô đỏ.
Căn cứ theo tính năng, các vị của một bài thuốc được đóng vai trò Quân, Thần, Tá, Sứ khác nhau. Cách gọi tên này là do xuất phát từ quy ước và vị trí ngôi thứ thời phong kiến, ý nghĩa chỉ đơn giản như sau:
- Quân (Sovereign): vị thuốc có tác dụng chính trong phương, chữa triệu chứng chính.
- Thần (Minister): vị thuốc có tác dụng hỗ trợ chữa triệu chứng chính hay những khía cạnh liên quan đến bệnh.
- Tá (Assistant): vị thuốc chữa triệu chứng khác của bệnh, thường chia nhóm rất đa dạng.
- Sứ (Courier): dẫn thuốc vào kinh, hoặc chữa triệu chứng phụ hay hòa hoãn tác dụng.
Bảng sau phân tích bài thuốc từ chế phẩm Lục vị Bổ thận âm của OPC, một phương thang quan trọng trong Đông y với sự cân bằng công năng của 6 vị thuốc ( tam bổ tam tả, bổ trợ cho nhau), với lý luận “trong bổ có tả và trong tả có bổ” trên 3 tạng can, tỳ và thận:

4. Sứ mệnh nghiên cứu thuốc Đông dược tại OPC
Đông dược và Dược liệu học có vai trò rất quan trọng, cung cấp những kiến thức nền tảng để các viện nghiên cứu, trường đại học, cơ sở chế biến thuốc tham khảo và xây dựng các nghiên cứu chuyên sâu, với mục tiêu cuối cùng là “cung cấp sản phẩm chất lượng cao,hiệu quả, an toàn, mang tính đột phá, đáp ứng nhu cầu chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cộng động”. Đó cũng chính là sứ mệnh cao quý của ngành Đông dược nói chung và của các đơn vị sản xuất dược phẩm nói riêng như OPC cần phải luôn hướng tới.
Để hoàn thành sứ mệnh cao quí này cần có một chiến lược lâu dài, cần sự chuyên môn hóa sâu từ nuôi trồng, cung ứng nguyên liệu đến phân phối sản phẩm tới tay người dùng.
Đông dược là một bộ môn khoa học kỹ thuật có tính hệ thống và phát triển ở trình độ cao. Đặc điểm này thể hiện rõ nét ở 3 công đoạn sau, cũng là những công đoạn then chốt nhất để hình thành nên 1 sản phẩm chất lượng:
+ Công đoạn nghiên cứu bào chế - sản xuất: tương tự như khi chúng ta xem cuộc thi “Vua đầu bếp” trên truyền hình, thí sinh thường tung ra nhiều kỹ thuật phối hợp, điều vị các món ăn theo kinh nghiệm, Bào chế đông dược cũng như một nghệ thuật chế biến dược liệu, nghiên cứu phối trộn các dược liệu, chất chiết xuất của dược liệu với chất không hoạt tính ( tá dược ) trên các thiết bị máy móc thích hợp để cho ra sản phẩm hiệu quả, an toàn với dạng bào chế tiện dụng (xem hình).
Hình bên minh họa một phần của hệ thống sản xuất viên hoàn (pills) tự động với 3 giai đoạn chính: (1) Trộn thành hỗn hợp dẻo – (2) Tạo viên – (3) Sấy vi sóng. Quá trình sản xuất được kiểm soát chặt chẽ theo quy định GMP và ISO 9001-2000.